AN NAM CHÍ LƯỢC – MỘT CUỐN SỬ PHẢI ĐỌC
I. VÌ SAO PHẢI ĐỌC AN NAM CHÍ LƯỢC
Đọc và nghiên cứu lịch sử trung đại Việt Nam, chúng ta có 3 nguồn tư liệu chính:
1. Chính sử Việt Nam;
2. Chính sử Trung Quốc;
3. Các bộ tư sử và ghi chép liên quan tới Việt Nam của cả Việt Nam và Trung Quốc.
– Chính sử Việt Nam thì tập trung vào 3 bộ chính: Toàn thư, Tiền biên và Cương mục, điều này ai cũng biết.
– Chính sử Trung Quốc ghi chép về Việt Nam thì tản mạn trong Nhị thập tứ /lục sử, may mắn là chúng ta có hai bộ sách tổng hợp và dịch, 1 là #An_Nam_truyện do Châu Hải Đường biên soạn từ 17 bộ sử, 2 là “Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa” do Cao Tự Thanh biên soạn từ 4 bộ sử. Bộ thứ nhất giá trị cao hơn, cả về mức độ đồ sộ của tư liệu và chất lượng dịch thuật.
– Các bộ tư sử có liên quan tới Việt Nam được khai thác chưa nhiều, nhưng nghiên cứu về thời Lý thì không thể bỏ qua #Việt_sử_lược; nghiên cứu về thời Trần thì không thể bỏ qua #An_Nam_chí_lược; nghiên cứu về khởi nghĩa Lam Sơn không thể bỏ qua #Đại_Việt_thông_sử và #Lam_Sơn_thực_lục.
An Nam chí lược không chỉ viết về sự kiện lịch sử, mà còn cất chứa vô vàn thông tin quý báu về tất cả các phương diện: địa lý, chế độ, nhân vật, phong tục, y phục, dân sinh, nghệ thuật, thơ ca,… Rất khác với lối chép sử biên niên như Việt sử lược, Toàn thư hay cả Cương mục.
Đặc biệt, khác với Toàn thư (Lê), Tiền biên (Tây Sơn), Cương mục (Nguyễn) – các bộ biên niên chính sử, nhưng lại ra đời rất muộn, tức là lấy hậu thế tham khảo tài liệu để viết về triều đại trước, gần thì 300 năm, xa thì 700 năm, không tránh khỏi những ảnh hưởng, mất mát của thời gian – thì An Nam chí lược do Lê Tắc biên soạn vào thế kỷ 14, có thể gọi là ghi chép trực tiếp về nhà Trần của người đương sống trong thời đại nhà Trần và được bảo tồn hầu như hoàn hảo tới ngày nay.
Những thông tin về sông núi, quận huyện cũ là vô giá mà Toàn thư đã bỏ qua rất nhiều. Thể chế chính trị, kết cấu quân đội của nhà Trần cũng chỉ có thể tìm được trong An Nam chí lược. Khá nhiều văn thư qua lại giữa Đại Việt và nhà Nguyên mà ta tuyệt đối không thấy có trong Toàn thư hay Nguyên sử, hẳn nhiên Lê Trắc đã sưu tầm và ghi chép lại.
Tất nhiên cũng phải nói ghi chép về trang phục của triều đình và dân chúng trong sách là cơ sở để giới cổ phong ngày nay phục hồi cổ phục.
Mặc dù phần lớn thông tin của An Nam chí lược đã được Việt kiệu thư kế thừa, bổ sung, sắp xếp lại, tuy nhiên, An Nam chí lược là tài liệu nguồn, là cơ sở trích dẫn uy quyền nhất mà người nghiên cứu nên/phải ưu tiên chọn.
Thậm chí nói không ngoa, An Nam chí lược còn quan trọng hơn Toàn thư nếu khảo về nhà Trần.
II. VỀ BẢN DỊCH CỦA AN NAM CHÍ LƯỢC
Thế nhưng thực đáng tiếc là bản dịch An Nam chí lược hiện nay lại không đạt yêu cầu. Tôi không có ý chê trách Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam của Viện đại học Huế, bộ An Nam chí lược đã được họ biên dịch từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước, khi mà các tiêu chuẩn về khoa học trong biên dịch chưa được xác lập, đặc biệt là biên dịch tài liệu lịch sử. Bởi thế, mặc dù An Nam chí lược được khai thác không ít, nhưng chưa thể gọi là phát huy được hết giá trị của bộ sách, nếu chỉ căn cứ vào bản dịch.
Ở đây, không nói tới lỗi cú đậu sai câu, dịch sai chữ (các bộ sách Hán Nôm do Ủy ban phiên dịch sử liệu dịch thường mắc nhiều lỗi sai này), mà chỉ nói tới những lỗi sai thuộc về phương pháp.
1. Lỗi có thành không
Trong các văn bản ghi chép có tích chất đương thời, các tên địa danh, nhân vật, quan chức cực kỳ quan trọng, vì nó khẳng định sự tồn tại của các tên gọi ấy trong thời điểm ghi chép.
Đơn cử như hai chữ “Việt Nam” – quốc hiệu của nước ta hiện nay – rất quan trọng đúng không? Chúng ta tranh cãi ngày này qua tháng nó để gán xuất xứ cho vua Gia Khánh bên Tàu, vua Gia Long nước ta, hay học giả Trịnh Hoài Đức,… nhưng hóa ra lại xuất hiện từ thời Trần.
Khẳng định này mới đầu được Lịch triều hiến chương loại chí nhắc tới, với tên bộ sách “Việt Nam thế chí” của Hồ Tông Thốc thời Trần. Nhưng dẫu sao thì cụ Phan Huy Chú – tác giả của Loại chí – cũng là người sống ở thời Lê mạt Nguyễn sơ, ghi chép trong Loại chí (Văn tịch chí) là rất đáng quan tâm, nhưng chưa đủ lấy làm bằng, vì vẫn là người hậu thế ghi chép về triều đại trước. Bản thân cuốn sách Việt Nam thế chí cũng đã thất truyền.
May mắn là An Nam chí lược ghi nhận không ít lần người ta dùng “Việt Nam” để chỉ nước ta, ví như Trần Cương Trung có bài thơ, trong đó có câu “老母越南垂白髮” – Lão mẫu Việt Nam thùy bạch phát; thơ của Lại Ích Quy có câu “聖日垂光被越南” – Thánh nhật thùy quang bị Việt Nam.
Cả hai câu thơ này, khi dịch sang quốc ngữ, các dịch giả đã bỏ hai chữ “Việt Nam”: câu đầu tiên thay “Việt Nam” bằng Nam Việt” – “Mẹ già Nam Việt phơ đầu bạc”; câu sau lược bỏ hẳn – “Mưa móc ơn nhuần chúa đoái thương”. Đành rằng dịch thơ không dễ, khi phải ép vần và bằng trắc, nhưng đây là các bài thơ thuộc bộ sách sử, dịch thoát như vậy là hỏng. Và không chỉ thơ, mà cả sử liệu cũng bị làm sai khác.
Tỷ như Trương Lập Đạo đi sứ nước ta có nói: “天子不以越南為遠” Thiên tử bất dĩ Việt Nam vi viễn, hai chữ “Việt Nam” đã bị dịch “An Nam” – “Thiên tử không cho rằng nước An Nam là nơi xa cách”.
Rất may là bản dịch An Nam chí lược còn giữ được ba chữ “Việt Nam” khác.
2. Lỗi không thành có
Hoàn toàn ngược với các lỗi dạng trên (mà ta có thể “bênh vực” là do cố dịch thành thơ nên bỏ qua tính chính xác của văn bản), thì bản dịch An Nam chí lược lại xuất hiện những lỗi không thành có, tức là tùy tiện thêm bớt chữ vào văn bản gốc.
Vẫn liên quan tới quốc hiệu, sau khi tra cứu “Việt Nam”, tôi tìm tiếp “nước Nam” trong bản dịch.
Bản dịch có câu: “bên nước Nam sai kẻ tư thần đài đệ rượu và đồ ăn nghinh tiếp”, nhưng thực ra nguyên văn là “彼國遣其私臣持酒食來迎” – Bỉ quốc khiển kỳ tư thần, trì tửu thực lai nghênh. Không có đích danh “nước Nam” nào ở đây cả, “bỉ quốc” nghĩa là “nước đó”.
Bản dịch lại có câu “Mùa đông năm Giáp Thân, đại binh qua đánh nước Nam”, nhưng thực ra nguyên văn là “甲申冬大兵南討 – đông Giáp Thân, đại binh nam thảo, dịch sát nghĩa là mùa đông năm Giáp Thân, đại quân thảo phạt phương nam, hai chữ “nước Nam” không hề xuất hiện.
Bản dịch lại có câu “Mùa xuân năm Giáp Ngọ, đem quân qua đánh nước Nam”, nhưng thực ra nguyên văn là “甲午春帥師南討” – Giáp Ngọ xuân, suất sư nam thảo, dịch sát nghĩa là “mùa xuân năm Giáp Ngọ, đem quân thảo phạt phương nam”, hai chữ “nước Nam” không hề xuất hiện.
Bản dịch lại có câu “Nước Nam từ ấy được bình yên”, nhưng thực ra nguyên văn là “南陸從此悉安然” – Nam lục tòng thử tất an nhiên, dịch sát nghĩa là “đất phương nam từ đó được bình yên”, hai chữ “nước Nam” không hề xuất hiện.
3. Các lỗi dịch sai
Rất nhiều, khó mà liệt kê hết được, do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Chính về thế, khi khai thác An Nam chí lược trước đây, tôi thường tự dịch lại chứ không sử dụng bản dịch có sẵn.
III. VỀ LÊ TRẮC VÀ BẢN DỊCH MỚI
Lê Trắc, với phần đa chúng ta, là một phản thần. Ông ta ra hàng người Nguyên khi chúng xâm lược năm 1284-1285. Tuy nhiên, đọc An Nam chí lược, ngoại trừ cách xưng hô và sắp xếp thế thứ để Đại Việt là thấp hơn một chút so với nhà Nguyên, thì tôi không tìm thấy sự ác cảm nhẽ ra sẽ có của tác giả dành cho cố quốc. Các ghi chép của ông là chân thực, không đề cao mà cũng không hạ thấp nhà Trần. Đặc biệt không có nửa lời mạt sát chế độ mà ông đã quay lưng lại. Đó là thứ mà chúng ta nên trân trọng, và cũng khiến tác phẩm của ông thêm nhiều giá trị.
Trong bản dịch mới của Mặc Sinh Hoàng Huy Lê, tôi được chia sẻ rằng dịch giả không chỉ sử dụng một bản Hán văn mà tham khảo khoảng chục bản khác nhau. Xa gần hỗ trợ nhau, dài ngắn bổ cứu nhau, đồng thời đối chiếu cả với sử sách Đường, Tống, Nguyên để chú thích và hiệu đính các sai sót của tiền nhân, trong đó có cả chú thích của Trần Kinh Hòa – tức bản nguồn của bản dịch cũ. Đây thực sự là công phu to lớn mà không phải dịch giả nào cũng thực hiện được.
Lời chúc mừng dịch giả đã nói từ hôm qua, nay biên thêm vài dòng dông dài để độc giả hân thưởng một tuyệt tác lịch sử, quan trọng bậc nhất trong kho tàng lịch sử dân tộc.
(Bài của Nhu Pham)
…
Sách có 2 phiên bản:
– Bìa cứng 350k (hết)
– Bìa mềm 285k